Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

Các cách chuyển một tấm ảnh màu qua đen trắng

Ngày nay khi mà máy chụp phim đã lùi về quá khứ, mọi người lại cố gắng sử dụng chiếc máy kỹ thuật số của mình để tạo ra những gì mà máy chụp phim từng làm được, trong đó bao gồm cả ảnh trắng đen.







Có rất nhiều cách để tạo ra một tấm ảnh trắng đen;

Bạn có thể thay đổi setting của máy chụp về chế độ B&W – đen trắng. Đơn giản là giảm sắc tố dẫn đến loại bỏ màu sắc khi máy chụp một hình ảnh. Bài viết này không đề cấp tới chi tiết cách này.

Lợi: Dễ dàng, đơn giản và không đòi hỏi nhiều kiến thức của quá trình tạo một tấm ảnh đen trắng.
Bất lợi: Giới hạn tương phản và dải sắc độ. Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi nó khiến bức ảnh nhìn có vẻ thiếu chiều sâu.

Chúng ta sẽ quan tâm nhiều hơn tới việc sử dụng Photoshop để có một tấm ảnh đen trắng tốt. Có rất nhiều plug-ins trong PTS có thể đảm nhận phần việc này, phải mất nhiều thời gian để có thể điểm ra được hết.

Tôi chỉ liệt kê một vài cách mà quen thuộc;


Sử dụng iPhoto hoặc Google’s Picasa hoặc Photoshop Elements. Với rất nhiều công cụ có thể hoàn thành việc này, đơn giản với một lần nhấp chuột.

Lợi: Dễ dàng để thực hiện các bước trong một lần nhấp chuột để có một tấm hình đen trắng.
Bất lợi: Một số công cụ yêu cầu trả tiền để cài đặt. Chất lượng không phải tốt nhất.

Photoshop bản thân đã rất đầy đủ các tính năng để làm việc này. Thậm trí có rất nhiều cách, tôi sẽ chỉ đi tới những cách quen thuộc, gồm cả những kinh nghiệm của bản thân.

Chúng ta có một số cách sử dụng sau;

  • Channel Mixer
  • Lag Color Method
  • Gradient Map
  • Desaturation

Channen Mixer

Cách quen thuộc nhất để biến một tấm ảnh màu thành ảnh trắng đen là sử dụng bảng Channel Mixer.

Có một quan niệm sai lầm phổ biến khi dùng kỹ thuật này là – phần trăm RGB có tổng là 100%. Thực tế là không cần phải bằng 100%, bạn có thể dùng các thông số khác nhau, miễn là nó đem lại một kết quả ưng ý.

Khi tôi sử dụng cách này, tôi thường đặt thông số khởi điểm là R; 70%, G: 30%, B: 5%.

Làm thế nào để sử dụng Channel Mixer


Đầu tiên bạn mở hình của mình lên. Sau đó click vào biểu tượng vòng tròn hai nửa đen trắng trong bảng layer (Tạo mới Adjustment Layer) và chọn Channel Mixer.




Click vào hình để xem lớn

Trong bảng Adjustment nhấp vào ô Monochrome, sau đó thay đổi thông số RGB là R70%, G 30%, B 5%





Tấm hình đã có màu đen trắng khá tốt, nhưng để nó tuyệt vời hơn bạn cần thêm vài bước nữa. Tôi cho hình tối thêm chút bằng cách nhập vào ô Constant là -2%.

Xong với bước này, click OK.

Bây giờ duplicate layer này 2 lần bằng cách nhấn Ctrl +J hoặc kéo hình thả vào biểu tượng new layer. Nhấp vào một trong các layer mới tạo. Thay đổi Screen Mode tới Color Burn và giảm Opacity xuống khoảng 5-15% tùy theo ý bạn.





Nhấp vào layer đã duplicate khác, chọn  Screen Mode là Soft Light và giảm Opacity xuống 5-30%. Bây giờ bức hình đã có thêm chiều sâu và nhìn không phẳng nữa. Bạn có thể thay đổi thông số các layer tùy theo tấm hình của bạn.

Tôi thấy một thứ hữu ích là bạn thêm Contrast vào layer bằng cách tiếp tục thêm adjustment layer, và chọn Brightness/Contrast và chỉnh theo ý muốn, điều này sẽ tạo độ tương phản, vùng tối thêm tối, và vùng sáng thêm sáng.




Lab Color

Cách này là cách tôi yêu thích nhất. Nó đơn giản và yêu cầu một chương trình xử lý mạnh mẽ như Photoshop CS. Mở file mà bạn muốn convert. Chuyển qua chế độ Lab Color bằng cách tới Imge>Mode>Lab Color.





Tại bảng Channel Window (nếu không thấy, chọn Windows>channels) và chọn Lightness Channel.





Chọn tất cả bằng cách tới menu Edit > Select All hay Ctrl + A và copy vùng chọn bằng cách Ctrl + C. Sau đó convert trở lại RGB Mode bằng cách tới Mode> RGB.





Trở lại bảng Channel Window và chọn Red channel, nhấp ctrl +V để dán. Chọn Green channel và dán tiếp bằng Ctrl +V, tiếp với Blue Channel và Ctrl +V.

Cuối cùng lên tới channel trên cùng để hiển thị đầy đủ và bạn đã hoàn thành xong.






Nếu bạn cảm thấy bức hình thiếu chiều sâu thì có thể duplicate các layer này hai lần và làm theo các bước ở trên để chỉnh theo ý muốn.

Gradient Map

Tôi không sử dụng cách này nhiều, nhưng nó vô cùng đơn giản.

Mở file mà bạn muốn convert và  thêm Adjust Layer. Chọn Gradient Map. Trong Dialog box, tại menu thả chọn Black and White, nhấp OK và bạn đã hoàn thành.











Desaturation

Cách này, theo cá nhân tôi khiến bức hình kém chiều sâu vì nó khá đơn giản. Bạn chỉ cần mở file, chọn Adjust layer và chọn Hue/Saturation. Trên bảng Dialog Box, giảm saturation xuống -100%. Xong.


 










Có rất rất nhiều cách, và cả plug-in để làm việc này. Không có cách nào là cách chuẩn nhất cho mọi trường hợp. Đơn giản bạn hãy thử và chọn ra một kết quả tốt nhất với tấm hình của mình.

Mẹo chụp thời trang đường phố (hết)

Trong đoạn video thứ hai, chúng ta tiếp tục theo chân Nick Fancher khi anh chọn những địa điểm khác để thực hiện 4 giờ làm việc.




Một trong những việc quan trọng của chụp thời trang đường phố là bạn cần tìm ra một điểm điểm phù hợp. Nick có trong đầu rất nhiều lựa chọn, thoạt nhìn có vẻ bình thường nhưng dưới góc máy của Nick chúng luôn mới mẻ và tươi mới.




Anh bắt đầu lần chụp này với nhãn hiệu Levi’s. Chọn một địa điểm đơn giản như là nơi đậu xe của thị trấn, Nick dự định tìm những địa điểm thú vị để tạo ra một khung nền của vùng ngoại ô.

Với lần chụp này, ban đầu anh sử dụng đèn có sẵn, nhưng để có cái nhìn ấn tượng anh đã xếp như dưới đây:

    

  • Sử dụng một cụm 3 đèn flash ở một phía, kích hoạt không dây.
  • Đèn được xếp cao hơn so với người mẫu và đặt độ sáng vừa phải để đảm bảo không sáng hơn ánh sáng môi trường.
  • Ở lần chụp thứ hai, Nick chỉ dùng đúng 1 đèn flash chiếu trực tiếp, Nick có được background có vẻ mạnh mẽ, đem lại vẻ “đường phố” cho tấm hình.




Nhãn hiệu thứ hai của ngày là một thương hiệu thời trang cao cấp (high fashion), hiện đại hơn.

Nick vẫn chụp ở bãi đỗ xe, nhưng lần này là ở trên tầng thượng, giúp cho khung hình xuất hiện cảnh thành phố hiện đại từ trên cao.





  • Sử dụng một bộ gofm 4 đèn flash điều khiển không dây, nick để ống kính độ mở lên tới 1.8, nhằm làm mờ và tối nền.
  •  Như những thiết bị tạo đèn ở trên, bộ 4 cái được đặt focal length là 105mm và ¼ độ sáng.
  • Anh điểm sáng người mẫu bằng cách sử dụng ánh sáng mặt trời hoàng hôn như một nguồn sáng đèn vàng để tạo rimlight. 

Lần chụp kế tiếp sử dụng cùng địa điểm, Nick sẽ chụp những đôi giày dáng thể thao của Reebok. Để tăng cường màu sắc anh đặt:





  • Nick để những đôi giày được chiếu sáng từ hai phía với đèn flash và kết hợp tông màu xám của đường chân trời thành phố với mặt trời từ phía sau để làm nổi bật màu sắc của những đôi giày.
  • Bằng cách giảm độ mở aperture, anh có một hình nền tối phía sau.

Palladium sản xuất những đôi giày phong cách nhà binh. Với lần “shoot” này Nick sử dụng người mẫu.





  • Anh sử dụng mặt trời là nguồn sáng phía sau (back-light)
  • Sau đó với hai đèn flash rời đặt bên trên, phía trước đôi giày và quan trọng tìm kiếm một góc máy thích hợp để tạo những vòng sáng quang học do mặt trời gây nên.
  • Các đèn flash được đặt 24mm để làm mịn ánh sáng phía trước.

Kết luận

Để có một cái nhìn thời trang chuyên nghiệp, chụp thời trang đường phố thường không tốn nhiều thiết bị, thời gian, sử dụng khoảng 3 đèn flash rời để có những nguồn sáng linh động.

Tuỳ theo hoàn cảnh để đặt đèn phù hợp với nhiệm vụ của bạn. Nếu bạn có thể hãy lưạ chọn kỹ những địa điểm để chụp, có lẽ nên thử chụp vài kiểu với máy chụp hình du lịch. Nó cho phép bạn tập trung thời gian vào những lần chụp thật sự khi thời điểm “chín muồi”

Mẹo chụp thời trang đường phố (phần 1)

Chụp 9 tới 10 nhãn hiệu thời trang trên phố trong một ngày mất 3-4 giờ là một thử thách khó khăn với bất kỳ nhiếp ảnh gia kinh nghiệm nào.



Nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp Nick Fancher sẽ chia sẻ cho chúng ta một số cách tối đa chất lượng những shoot, bằng cách sử dụng những dụng cụ gọn nhẹ cùng với cách xử lý ánh sáng trong hướng dẫn này.




Thương hiệu đầu tiên mà Nick sẽ làm việc là Entrée, một thương hiệu thời trang đường phố.

Chọn một mô đất bỏ hoang với ánh sáng khắc nghiệt, Nick tìm kiếm một cái nhìn cách điệu để nhấn mạnh vẻ “đường phố” của quần áo. Anh bắt đầu thiết lập.





  • Ba bộ đèn Flash ở chung một phía với độ sáng được thiết lập vừa phải.
  • Khoảng cách từ đèn tới chủ thể là 105mm để có ánh sáng trực tiếp.
  • Sử dụng máy Canon với Shutter Speed – 1/5000 cho phép màu sắc nổi bật và nền sẫm. mờ.
  • Bằng cách để đèn Flash trực tiếp với ánh mặt trời, Nick có thể coi mặt trời như một nguồn sáng chính (key light) giúp cho tốc độ màn chập nhanh để xóa phông.

Thương hiệu thứ hai Nick sẽ làm việc là Saucony, một thương hiệu thể thao. Họ yêu cầu chụp một đôi giày trong một ngày nắng đẹp. Kỹ thuật Nick sử dụng như dưới đây.





  • Chụp trên sân bóng rổ, do đó anh có thể sử dụng ánh sáng mặt trời chiếu qua đường lưới hàng rào tạo nên một chất liệu tốt. Đồng thời bóng của đôi chân và của hàng rạo tạo nên sự tương phản.
  • Để người xem có thể thấy rõ ràng, ông sử dụng khẩu f11.
  • Đôi giày sẽ được làm sáng từ hai bên với đèn Flash, vẫn với thiết lập 105mm, trực tiếp tới chủ thể.
  • Bộ Flash thứ ba sử dụng ở phía trước của giày. Flash này thu nhỏ khoảng 24mm cung cấp ánh sáng nhẹ hơn. Ánh sáng mặt trời sẽ ở phía sau cung cấp keylight.

Lần Shoot thứ 3, Nick tiếp tục chụp các đôi giày thời trang đường phố của Palladium.

Chụp từ mái nhà, Nick sử dụng cảnh quan đường phố làm nền, thích hợp với độ mở ống kính tầm trung, nhưng vẫn giữ sự tập trung vào những đôi giày. Nick đã làm như sau;





  • Anh tạo rimlight (áng sáng viền trên đối tượng) từ hai bên bằng cách sử dụng Flash thiết lập 105mm.
  • Đèn Flash thứ 3 đặt trực tiếp vào những đôi giày với thiết lập 24mm và đặt manual 1.4 power.

Tiếp tục với thương hiệu Palladium, vẫn trên tần thượng, nhưng lúc này có hai người mẫu, và cả hai cần được nhìn rõ. Lúc này ông sử dụng 2 đèn flash.





  • Các chủ thể được chiếu sáng một phía với một đèn flash 105mm.
  • Chủ thể đứng trước được chiếu sáng từ phía đối diện với đèn Flash 24mm để làm dịu tác động.
  • Sử dụng khẩu độ tầm trung, ông giữ cải hai đối tượng được tập trung và sáng hơn so với nền.

Lần chụp cuối cùng chỉ đơn giản với một Flash ngay trên máy.





Đèn để 105mm với ánh sáng trực tiếp vào chủ thể tạo giúp tốc độ của sập cao và giúp bầu trời có màu sắc dịu.

8 kỹ thuật chụp ảnh nên biết

Là một nhà thiết kế hẳn bạn cũng yêu nhiếp ảnh. Với tám hiệu ứng nhiếp ảnh cơ bản dưới đây, bạn sẽ có kết quả thú vị hơn khi bấm máy.


1. Bokeh



Bokeh là từ chuyên môn khi đề cập tới hiệu ứng của khu vực không được tập trung (focus) của ảnh. Để một tấm ảnh xuất hiện Bokeh đòi hỏi một chiếc máy chụp hình chất lượng khá với một ống kính có hỗ trợ để bạn có thể có tốc độ chụp nhanh.









Bạn cũng có thể tạo các hình thù khác nhau của bokeh, chẳng hạn như ngôi sao, hoặc trái tim. Điều này có thể thực hiện bằng cách chụp lên ống kính cái nắp bằng giấy có khoét hình mà bokeh mà bạn muốn thấy trên ảnh.





Tạo Bokeh hình trái tim trên ống Fix 50mm 1.8


2. Panning – Di chuyển




Panning là kỹ thuật đề cập tới sự chuyển động dọc, ngang trong khi chụp hoặc quay phim. Để có thể có kỹ thuật Panning, bạn cần di chuyển theo đối tượng, hoặc lia ống kính theo hướng di chuyển đối tượng và ấn nút chụp.

Nó sẽ đem lại hiệu ứng thú vị và thích hợp với những sự kiện có chuyển động như đua xe, thi chạy…

3. Quy tắc một phần ba



Quy tắc 1/3 là một quy tắc cực kỳ cơ bản, nó là dạng bố cục được nhiều họa sĩ và nhiếp ảnh gia lựa chọn. Quy tắc 1/3 là cách bạn chia bức ảnh làm 3 phần đối với hai chiều ngang và dọc, sau đó ngắm chụp sao cho đối tượng chính nằm trong 1/3 của ảnh.

Với những người chuyên nghiệp việc lựa bố cục đã thành thói quen, còn nếu bạn bỡ ngỡ thì việc luyện tập thường xuyên sẽ giúp bạn có bức ảnh ưng ý.





Nếu bạn say sưa chụp mà quên mất việc lựa chọn một bố cục thích hợp thì hãy để …Photoshop làm việc này.

4. Giờ vàng




Giờ vàng hay còn gọi là Magic Hour, đề cập tới những giờ mặt trời bắt đầu lên và mặt trời chuẩn bị khuất đi. Chúng là khoảng thời gian hoàn hảo trong ngày để tạo nên một tấm hình hoàn hảo, tuy nhiên lại rất nhanh qua do thời khắc "chiều tà" hay "hoàng hôn" rất ngắn.









Việc mặt trời gần đường chân trời giúp cường độ ánh sáng mặt trời giảm, màu sắc trở nên ấm ám và dễ chịu. Trong khi ban ngày thì trời quá sáng, khiến những đối tượng trong ảnh có thể xuất hiện bóng đổ không đẹp mắt, đặc biệt với nhiếp ảnh chân dung.

5. Tỉ lệ vàng




Tỉ lệ vàng xuất hiện trên dãy số Fibonacci: 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34 với số sau là tổng hai số trước đó. Các bố cục sử dụng Tỉ lệ vàng thường giúp mắt người tập trung tốt hơn, và những tỉ lệ này xuất hiện phổ biến trong thiên nhiên và cả với số đo cơ thể người.




6. Đánh Flash







Khi đối tượng có vật chắn sáng khiến phần tối tương phản nhiều với phần sáng, đánh flash là giải pháp tốt.



Đánh Flash là một kỹ thuật của nhiếp ảnh nhằm giúp cho các vùng tối trên ảnh được thấy tốt hơn.

7. Phơi sáng – Long Exposure




Phơi sáng là một kỹ thuật thú vị (nó ngược lại với Bokeh) khi đòi hỏi độ mở ống kính nhỏ và tốc độ màn chập trong thời gian dài. Việc này sẽ giúp ghi lại những yếu tố chuyển động trong khoảng thời gian đợi màn chập sập xuống.








Kỹ thuật này thường được chụp vào ban đêm khi nhiếp ảnh gia muốn ghi lại chuyển động của xe cộ, hay những ngôi sao. Tuy nhiên cũng có thể dùng vào ban ngày nếu bạn muốn chụp một dòng nước, hay sương mù buổi sáng, hoặc trên núi.




8. Contre-jour




Contre-jour trong tiếng Pháp là ngược sáng. Chụp ngược sáng nhiều khi là một lựa chọn sai, nhưng trong một số trường hợp nó lại đem lại hiểu quả bất ngờ. Nhờ sự tương phản cao giữa ánh sáng và bóng tối, nên các chi tiết hầu như biến mất, chỉ nổi lên các đường viền của đối tượng.

Tuy nhiên với một ống kính không được hỗ trợ tốt, việc chụp ngược sáng khiến ảnh bị mất nét. Vì thế có những bộ lọc – Filter hỗ trợ ngăn cản ánh sáng vào ống kính quá nhiều.








Kết luận

Để chụp ảnh tốt cần rất nhiều kỹ thuật, nguyên tắc để có những tấm hình được đánh giá cao. Vì thế nếu chưa biết bạn có thể làm quen với những kỹ thuật cơ bản trên đây.

Khi nắm vững các kỹ thuật, nguyên tắc cơ bản thì có những tấm ảnh tuyệt vời đối với bạn sẽ là việc dễ dàng hơn.

Một số mẹo vặt trong nghề quay

Một số mẹo vặt trong nghề quay
Mọi người phóng viên đều có những mẹo vặt riêng của mình trong nghề. Một số mẹo là về những cuộn băng, pin máy quay, đèn đóm hay là mic thu âm. Hầu hết họ đều có những mẹo mà chúng ta khó có thể thấy tường tận được. Đó là những kinh nghiệm của họ với những kỹ năng, kiến thức và khả năng trực giác mà chỉ nhờ có trui rèn qua nhiều thời gian trong nghề họ mới có được. Những kinh nghiệm quý báu này không đến nhanh được. Phải trải qua nhiều lần thử nghiệm và mắc lỗi sau đó họ sẽ rút tỉa ra những kinh nghiệm cho bản thân và thực sự mà nói mỗi lần mắc lỗi chúng ta lại học được rất nhiều điều hay.
Với kinh nghiệm quay tin tức phóng sự trong 9 năm (tác giả Kevin): Tôi đã chứng kiến rất nhiều tình huống, tôi học được rất nhiều điều mới mẻ hàng ngày và biến chúng trở thành kinh nghiệm bản thân của mình. Kinh nghiệm quý báu nhất mà tôi học được đến trong kỳ thực tập đầu tiên của tôi. Một nhiếp ảnh gia đơn giản đã dạy tôi không bao giờ nói ”Tôi biết rồi”. Ngay khi bạn nói “Tôi biết rồi” mọi người sẽ để bạn tự làm và họ sẽ không chia sẻ kinh nghiệm kiến thức với bạn nữa. Hãy luôn mở rộng trí não của bạn để đón nhận thông tin.
Đói với những ai đang chập chững vào nghề, đây là một số lời khuyên đối với bạn, coi như là những kinh nghiệm đầu đời mà bạn có thể thu nhận được... Hy vọng rằng những kinh nghiệm này sẽ còn đựoc nhân lên nữa
  1. Cân bằng trắng: Cân bằng trắng không chỉ đơn thuần là đưa máy quay của bạn vào một vật gì đó màu trắng và nhấn một cái nút. Vị trí và góc độ của bề mặt màu trắng đó cũng rất quan trọng. Nguồn sáng chính của bạn là cái gì, đến từ đâu? Từ bóng đèn bên trên hay từ ánh sáng mặt trời ngoài cửa sổ? Hãy điều chỉnh vị trí của việc cân bằng trắng của bạn theo những yếu tố đó. Một vài thay đổi nhỏ về cách làm thế nào và nơi nào đựoc chọn cho việc cân bằng trắng của bạn có thể hoàn toàn thay đổi giá trị của hình ảnh bạn thu được.
  2. Sử dụng chân máy: Một số người cho rằng máy quay không nên zoom lia nếu nó không được đạt trên một chân máy ổn định. Ở một thái cực khác nhiều người lại cảm thấy thoải mái khi sử dụng camera cầm tay mà theo họ những hình ảnh di động là rất có ý nghĩa. Có một thái cực trung gian hơn. Nếu bạn không có ý định di chuyển camera (lia hay cho máy chạy) thì chẳng có lý do gì không đặt máy quay của bạn lên trên một bệ đỡ ổn định (chân máy, bàn hoặc sàn nhà)
  3. Lắng nghe âm thanh tự nhiên: Truyền hình không chỉ là hình ảnh mà còn là âm thanh. Theo dõi những âm thanh hấp dẫn của tự nhiên và thông thường đó là những nơi mà ta có thể kiếm được những hình ảnh tốt.
  4. Kéo dài cảnh quay của bạn: Hãy chắc chắn là bạn sẽ kéo dài cảnh quay đủ để sau này có thể biên tập lại chúng. Hãy đặt một khuôn hình tốt và đếm đến 10 trước khi chuyển sang một cảnh mới.
  5. Đừng ghi hình những cảnh quay đơn thuần - Hãy ghi lại một trường đoạn: Đừng nghĩ đến những hình ảnh đơn lẻ ngoại trừ những hình ảnh cùng xảy ra một thời điểm. Hãy ghi hình một đọan phim có Toàn cảnh, Trung cảnh và Cận cảnh. Hãy để mọi người đi vào và đi ra trong khuôn hình. Hãy để cho mọi người không thể nhận ra việc biên tập hình ảnh của bạn. Hãy để người xem cảm nhận họ là một phần của những hành động đó.
    Một số mẹo vặt trong nghề quay
  6. Zoom bằng chân của bạn chứ không phải ống kính của bạn: Mắt người không có chức năng zoom vậy nên máy quay của bạn cũng không nên zoom. Hãy di chuyển máy quay đến gần vật thể thay cho việc đứng từ xa zoom vào nó.
  7. Tránh sử dụng đèn máy quay bằng mọi giá: Ánh sáng tệ nhất là thứ ánh sáng rọi cùng theo góc với máy quay của bạn. Nó làm cho vật thể bị bẹt đi và làm cho vật thể của chúng ta sẽ bị quá sáng không ăn nhập với background. Đơn giản là hãy di chuyển đèn tí chút sang một phía và bạn sẽ nhận được những hiệu quả ngạc nhiên. Tốt nhất là hãy sử dụng ánh sáng tự nhiên bất cứ khi nào có thể. Bạn không cần thiết phải sủ dụng tới ba đèn công suất lớn để chỉ chiếu sáng một vật nhỏ.
    Sắp đặt cuộc phỏng vấn của bạn: Bỏ ra chút thời gian để sắp xếp nhân vật của bạn cho đúng môi trường hoàn cảnh. Đừng đặt họ cạnh những bức tường. Hãy sắp xếp có tiền cảnh và hậu cảnh trong cảnh quay của bạn để tạo ra chiều sâu cho khuôn hình. Sắp xếp các chủ thể của bạn ở phía phải hoặc phía trái khuôn hình sao cho khi chuyển cảnh những chủ thể này không nằm cùng một phía trên màn hình.
  8. Nắm được câu chuyện và lắng nghe cuộc phỏng vấn: Hãy nói chuyện với người phóng viên để có thể biết hướng mà câu chuyện sẽ đi theo. Hãy thoải mái góp ý nếu góp ý của bạn làm cho mọi việc tốt hơn. Hãy lắng nghe vấn đề chính của cuộc phỏng vấn và tìm ra những câu phát biểu mang tính mấu chốt của cuộc phỏng vấn. Hãy chắc chắn là bạn đã có những hình ảnh để thể hiện nội dung mà cuộc phỏng vấn bàn luận đến. Kiểm soát và chuẩn bị mọi thứ thật kỹ càng.
  9. Đừng ngại ngần sáng tạo: Một phần của việc tôi yêu thích công việc trở thành phóng viên truyền hình đó là việc tôi có thể làm cho mọi người trên thế giới được thể hiện ở những góc độ mà họ chưa bao giờ nghĩ đến hoặc được nhìn thấy trước đó. Một khi bạn đã có được những cảnh quay an toàn rồi bạn có thể thử những góc quay mới hay những cách di chuyển camera khác lạ. Cưỡi một con voi trong rạp xiếc hay góc nhìn của một con chó trong chuồng -bạn có thể làm tất cả. Làm gì thì làm, hay luôn luôn vui vẻ bạn nhé!

Ánh Sáng Và Một Số Kỹ Thuật Quay Phim

Ánh Sáng Và Một Số Kỹ Thuật Quay Phim
Thời trước, công việc quay phim được giao cho một người. Người này không chỉ sử dụng máy quay mà còn phải rửa và tráng phim trong phòng kín. Tuy nhiên theo thời gian, khi nghệ thuật quay phim ngày càng phát triển và trở nên phức tạp, nhiệm vụ của nhà quay phim dần dần đặc trưng hơn và sự đóng góp của họ trong bộ phim ngày càng quan trọng. Rất nhiều sáng tạo kỹ thuật ghi nhận cho đạo diễn D.W.Griffith bắt nguồn từ nhà quay phim của ông, Billy Bitzer, hoặc sự cộng tác thân thiết đầy sáng tạo giữa hai người.
Đạo diễn hình ảnh hiện đại ( Director of Photography- Cinematographer )
Ánh Sáng Và Một Số Kỹ Thuật Quay PhimThấy bài này có vẻ được nên post lên cho anh em quay phim nào muốn tìm hiểu thêm về thông tin chuyên ngành....

1. Họa sĩ vẽ bằng ánh sáng
Thời trước, công việc quay phim được giao cho một người. Người này không chỉ sử dụng máy quay mà còn phải rửa và tráng phim trong phòng kín. Tuy nhiên theo thời gian, khi nghệ thuật quay phim ngày càng phát triển và trở nên phức tạp, nhiệm vụ của nhà quay phim dần dần đặc trưng hơn và sự đóng góp của họ trong bộ phim ngày càng quan trọng. Rất nhiều sáng tạo kỹ thuật ghi nhận cho đạo diễn D.W.Griffith bắt nguồn từ nhà quay phim của ông, Billy Bitzer, hoặc sự cộng tác thân thiết đầy sáng tạo giữa hai người.
Đạo diễn hình ảnh hiện đại ( Director of Photography- Cinematographer )
không bắt buộc là người trực tiếp cầm máy quay, nhưng họ phải chuyển tải được ý tưởng của biên kịch và đạo diễn thành hình ảnh sống động. Dưới tay Đạo diễn hình ảnh có nhiều người phụ trách từng việc riêng biệt. Những người này giúp Đạo diễn hình ảnh rảnh rang để giải quyết trách nhiệm chính - sáng tạo tâm trạng, không khí, kiểu quay phù hợp cho mỗi cảnh và duy trì chất lượng những việc này trong suốt cả phim.
Đạo diễn hình ảnh được coi là hoạ sĩ vẽ bằng ánh sáng. "Nếu không nhờ trình độ và tài năng của đạo diễn hình ảnh thì không thể nào chuyển tác phẩm của nhà văn thành những cảnh phim sống động cho mọi người xem", nhà quay phim Michael Benson nói. Vai trò của Đạo diễn hình ảnh bắt đầu từ khi phim còn chưa bắt đầu bấm máy. Họ thường xuyên phải hội ý với nhà sản xuất và đạo diễn về vô số chi tiết kỹ thuật, kể cả sự lựa chọn nguyên liệu phim và phòng kín. Họ cũng thường chọn địa điểm được tả trong kịch bản để chắc chắn nó thích hợp với cảnh quay, tính toán bao nhiêu máy quay và dụng cụ ánh sáng đủ để quay cảnh đó. Đạo diễn nghệ thuật và hoạ sĩ thiết kế phông màn cùng thảo luận với đạo diễn hình ảnh về góc độ ánh sáng và cách lắp đặt máy quay trong mỗi cảnh.
Nhiều người nghĩ rằng đạo diễn chỉ cho diễn viên những việc phải làm và Đạo diễn hình ảnh ghi hình cảnh đó. Điều đó đúng, nhưng quá trình này không chỉ đơn giản như vậy. Sự chuyển biến từ kịch bản ban đầu đến những hình ảnh trên màn ảnh rộng diễn ra qua ống kính của Đạo diễn hình ảnh. Làm phim là tập hợp những gì có sẵn và lọc qua một thiết bị- máy quay. Trước khi ghi hình cảnh đầu tiên, tất cả chỉ có hợp đồng, ý tưởng, khái niệm, kịch bản, và hy vọng mà thôi.
Một khi phim đã khởi quay, đạo diễn hình ảnh là người quan trọng thứ hai trong đoàn, chỉ sau đạo diễn. Làm việc cùng nhau, đạo diễn và đạo diễn hình ảnh quyết định góc quay, bố trí, chuyển động máy quay trong từng phân cảnh. Việc gì đã làm cho đạo diễn hình ảnh đặt máy quay ở đây mà không là ở đằng kia? Janusz Kaminski cho rằng: "Tất cả những kinh nghiệm cuộc đời của một người tạo ra mỗi chọn lựa sáng tạo của anh ta. Đó là điều tạo nên dấu ấn riêng cho mỗi đạo diễn hình ảnh". Rồi họ chọn ống kính và bộ lọc sáng phù hợp để có thể đạt được những nét cơ bản theo kịch bản có trước, xác định độ sáng, dựng dụng cụ tạo sáng để tạo được hiệu quả và màu sắc đặc thù. Sau đó đạo diễn hình ảnh cùng xem lại cảnh đã quay mỗi ngày để đánh giá hiệu quả công việc và thay đổi kịp thời trong lần quay tới.
Vào giai đoạn cuối, đạo diễn hình ảnh giám sát sự thay đổi của bản phim đầu tiên trong phòng kín để chắc chắn độ sáng và phong thái các màu sắc chủ đạo phù hợp với những hình ảnh chất lượng trên màn ảnh rộng cho khán giả thưởng thức. Đạo diễn hình ảnh bỏ nhiều thời gian vào công việc, bù lại họ mang đến cho khán giả, trong vài giây phút ngắn ngủi, cơ hội để đến một thế giới hoàn toàn mới lạ.

2. Các vị trí khác trong nhóm quay phim
Nhà quay phim ( Camera Operator )
Đạo diễn hình ảnh có phải là nhà quay phim không?
Câu trả lời là "phải". Trong những đoàn làm phim nhỏ, Đạo diễn hình ảnh vẫn hay đảm nhận việc ghi hình. Nhưng nhà quay phim không phải lúc nào cũng là Đạo diễn hình ảnh. Nhà quay phim thường sử dụng ánh sáng từ các hướng khác nhau để quay cận cảnh mặt diễn viên. Đôi lúc trong những cảnh nhiều máy quay phim ở các góc độ, họ không sử dụng ánh đèn nào cả. Nhà quay phim điều khiển máy quay, kiểm tra và chịu trách nhiệm về các đoạn phim đã thực hiện: ánh sáng, góc nhìn, hình ảnh và sự diễn đạt âm thanh. Họ cần nắm rõ cấu tạo của máy quay và thường giải quyết những vấn đề kỹ thuật xảy ra trong suốt quá trình làm phim.
Đạo diễn hình ảnh thì thạo sử dụng ánh sáng với nhiều kiểu và độ nhoè khác nhau. Trong những cảnh hoành tráng, đạo diễn hình ảnh thường quản lý nhiều nhà quay phim lo riêng về các chuyển động của máy quay. Sự khác biệt giữa hai chức danh, ngoài kinh nghiệm và kỹ thuật, còn nằm ở khoản lương họ nhận được.
Ánh Sáng Và Một Số Kỹ Thuật Quay Phim
Trong những đoàn làm phim lớn sẽ có thêm:
+ Trợ lý quay phim thứ nhất ( Focus Fuller ) - thay ống kính, giữ máy quay hoạt động theo đúng chế độ, giữ nguyên mục tiêu khi máy quay chuyển động, đánh dấu vị trí diễn viên đứng và đo khoảng cách từ vật thể đến ống kính.
+ Trợ lý quay phim thứ hai ( Clap Boy)- chuẩn bị đạo cụ cho Trợ lý thứ nhất, thay phim, điền vào bản báo cáo hoạt động và sử dụng clapperboard ở đầu hay cuối mỗi phân cảnh.
Phụ trách ánh sáng ( Gaffer )
Vai trò của người phụ trách ánh sáng ảnh hưởng mật thiết đến sự thành công của một bộ phim. Nói cho cùng, tất cả những công việc sản xuất như phông màn, đạo cụ, tài năng, và quay phim đều phải dựa vào ánh sáng mới nổi bật được. Ánh sáng ẩu dễ làm hư một tác phẩm nghệ thuật, và ngược lại, ánh sáng đẹp sẽ làm tăng thêm giá trị một bộ phim bình thường.
Phụ trách ánh sáng quản lý độ sáng, màu sắc, độ tương phản, nguồn sáng và tính tự nhiên của ánh sáng. Họ cũng thường là người quản lý điện đóm, bảo đảm đủ năng lượng cho các độ sáng ở mọi cảnh quay. Trong những cảnh rộng, họ thường có thợ điện và vài người thợ lắp ráp giúp những việc tay chân cần thiết cho các yêu cầu điện đóm. Nhờ đó người phụ trách có thể rảnh rang lo ánh sáng, cụ thể là thiết kế, sắp đặt, và điều khiển những thiết bị ánh sáng và dàn đèn.
Kinh nghiệm và phong cách là những yếu tố cần thiết để chọn một người quản lý ánh sáng. Kinh nghiệm rất quan trọng. Lo ánh sáng cho một góc quay hay nhiều góc quay cùng một lúc là những chuyện rất khác nhau. Nhiều người phụ trách ánh sáng đã vô cùng lúng túng khi tìm cách lên đèn cho một cảnh sử dụng nhiều máy quay ở các góc độ, nhất là khi họ đã quen với kiểu quay một máy. Nói về phong cách, đó là khả năng ghi nhớ bối cảnh của một bộ phim. Ví dụ trong một bộ phim khung cảnh đồng quê, phụ trách ánh sáng cần chú ý hạn chế kiểu ánh sáng thành thị màu mè.
Phụ trách ánh sáng phối hợp chặt chẽ với Đạo diễn hình ảnh để cùng làm tôn lên phong cách nghệ thuật của một bộ phim. Họ thường đứng ở vị trí thứ ba, sau Đạo diễn, Đạo diễn hình ảnh ( và nhà quay phim, nếu có ). Có câu chuyện kể rằng khi một vị đạo diễn hình ảnh nổi tiếng và đáng kính được các sinh viên hỏi điều gì quan trọng nhất họ có thể làm để nâng cao chất lượng hình ảnh, ông đã trả lời: "Hãy thuê người phụ trách ánh sáng tốt nhất có thể, thậm chí chia một phần lương của mình cho anh ta".
Trợ lý ánh sáng ( Best Boy )
Trong những đoàn làm phim lớn sẽ có trợ lý ánh sáng. Trợ lý làm việc chủ yếu với đạo diễn hình ảnh và là cánh tay phải của người phụ trách ánh sáng. Công việc chủ yếu của họ là bảo đảm điện năng, chăm lo cho nhóm quay phim, lắp đặt thiết bị, quản lý công việc giấy tờ, và thuê thêm người nếu có những cảnh quay lớn phức tạp. Đôi lúc khi quản lý ánh sáng quá bận, người trợ lý này phải luôn luôn sẵn sàng để phụ việc hoặc làm thay người phụ trách ánh sáng.
Một khi Đạo diễn hình ảnh và phụ trách ánh sáng đã hội ý xong, công việc của trợ lý ánh sáng là lên đèn ở độ sáng và mờ cần thiết để phối hợp với tốc độ phim, tương phản, thiết bị lọc sáng, ống kính, và loại phim. Thường những bóng đèn họ sử dụng là những bóng đèn lớn ( 12,000 W đến 36,000 W ) và cần khá nhiều điện năng. Vài loại bóng đèn họ sử dụng được thiết kế đặc biệt chỉ dùng để bắt chước ánh sáng ngày ( đèn HMI ) hoặc đêm ( đèn Tungsten ). Họ cũng có những loại keo để tạo ra nhiều màu sắc khác nhau và làm ánh sáng nhạt hơn.
Hậu đài ( Grips )
+ Key Grip: Quản lý các nhân viên hậu đài. Đồng thời đây cũng là người tháp tùng và mang theo đầy đủ đồ nghề cho nhà quay phim đến những địa điểm quay.
+ Second Company Grip: Đặt hàng dụng cụ cần thiết cho công việc hậu đài ở mỗi phim.
+ Crane/ Dolly Grip: Người thiết kế đường ray máy quay, điều khiển tay cẩu máy quay hoặc lo phần "chân" của các máy quay, như cây chống, cây dù đủ cỡ...
+ Construction Grip: Dựng/ tháo phông màn, dựng dàn đèn, bảo trì phông cảnh.
+ Company Grips: Giúp việc lặt vặt cần thiết khi dựng cảnh.

3. Một số kỹ thuật quay phim
Góc quay là góc nhìn từ máy quay với chiều sâu, chiều dài, chiều rộng cân xứng với vật hay hành động được quay. Góc nhìn từ máy quay không chỉ quyết định cái gì sẽ xuất hiện trong cảnh đó mà nói chung còn là cách khán giả sẽ nhìn sự việc - gần hay xa, từ trên xuống hay từ dưới lên, chủ quan hay khách quan…
Do đó sự chọn góc quay không chỉ ảnh hưởng đến tiến độ câu truyện mà còn thể hiện chất lượng thẩm mỹ của cảnh quay và quan điểm tâm lý của khán giả. Qua nhiều năm, đạo diễn và nhà quay phim đã thành lập một kiểu quy ước liên quan đến kỹ thuật, thẩm mỹ và đặc tính tâm lý của nhiều góc quay khác nhau.
Góc ngang ( vừa tầm mắt ) để diễn tả cảnh giống như thật nhưng ít kịch tính. Người ta cho là nó cung cấp cái nhìn bình thường và thường quay từ độ cao 1.2 m đến 1.8 m. Tầm mắt của nghệ sĩ ( chứ không phải của nhà quay phim ) quyết định chiều cao của máy quay, và đặc biệt chủ yếu trong những khi quay cận cảnh. Vì hướng nhìn bình thường nên cảnh quay góc ngang thường được sử dụng để tạo nên tình huống và chuẩn bị cho khán giả một cảnh liên quan.
Trong cảnh quay góc cao máy quay nhìn xuống sự vật. Theo kỹ thuật thì nó có thể cho phép đạo diễn có cái nhìn bao trùm hết mặt đất và hành động trong chiều sâu. Cảnh như vậy cũng sẽ có khuynh hướng làm chậm hành động lại và giảm bớt độ cao của sự vật hay nhân vật ( theo luật xa gần ). Nét đặc trưng cuối cùng này có thể gây ra nhiều hiệu quả tâm lý phụ, ví dụ như cho khán giả cảm giác mạnh mẽ hơn nhân vật trên màn ảnh hay ngụ ý hạ thấp tầm quan trong của bất cứ nhân vật nào với những người hoặc khung cảnh xung quanh.
Trong phim của Murnau The Last Laugh, diễn viên Emil Jannings thường được quay từ trên xuống sau sự sụp đổ của ông, trong khi trước đó các cảnh miêu tả ông như là một ông gác cổng kiêu hãnh thường được quay ở góc thấp. Trong cảnh quay góc thấp, máy quay thường đặt ở dưới nhìn lên sự vật. Hiệu quả của cách này thường là để tạo kịch tính, tạo nên sự xuyên tạc quyền lực của viễn cảnh và toàn bộ sự việc. Nó thường đẩy nhanh diễn biến phim, thêm tầm cao và sức mạnh cho nhân vật.
Sự sắp đặt máy quay góc thấp chiếm ưu thế trong phim Citizen Kane của Orson Welles để làm nổi bật sự to lớn phi thường của ông trùm báo chí. Để chấp nhận việc thường xuyên sử dụng kiểu quay này, Welles đã phải xây dựng phim trường toàn là trần nhà. Chính sự có mặt khắp nơi của trần nhà ở cảnh nền đã tạo nên một trong những nét đặc trưng khác thường của Citizen Kane. Chỉ đơn thuần thay đổi góc quay, đạo diễn có thể không chỉ cho thấy sự thăng trầm trong cuộc đời nhân vật mà còn thổi vào thái độ khán giả phải chấp nhận qua những cá tính và hành động trong phim.
Sự đa dạng trong các góc quay là vô tận. Không có luật lệ nào về chuyện phải sử dụng góc quay nhất định cho một cảnh nào đó. Góc ngang, góc cao và góc thấp chỉ là những nhóm chính, như là cách quay cạnh ( thêm một chiều nữa cho sự vật ), góc Hà Lan / khung nghiêng ( nhìn sự vật trong cái nhìn nghiêng hiệu quả cao ) và rất nhiều góc quay khác được sử dụng cũng như chưa được biết đến qua bao nhiêu thập kỷ làm phim.
Chuyển động máy quay là sự di chuyển ngang, dọc, theo đường ray ( sự chuyển động của máy quay trên một đường ray ngắn đặt sẵn quay theo vật thể di chuyển ) và phóng to thu nhỏ. Có những quy ước quan sát quốc tế dành cho chuyển động máy quay. Theo quy định, một nhà quay phim sẽ chạy máy quay ở vị trí nhất định trong một thời gian ngắn trước khi bắt đầu chuyển động, và đứng im một lần nữa sau khi hoàn tất chuyển động. Luật lệ này không chỉ giúp cho hình ảnh chuyển động uyển chuyển mà còn cho phép biên tập viên có sự lựa chọn giữa cảnh tĩnh và cảnh động khi đang chỉnh sửa phim.
Một cách nhìn thoáng hơn về luật này là chuyển động bắt đầu và kết thúc ở một điểm đặc biệt nào đó đã được chọn sẵn và quay tập nhiều lần trước khi quay chính thức. Đạo diễn hình ảnh trong trường hợp này khá quan trọng trong việc quyết định chuyển động máy, ví dụ sau một cảnh quay ngang từ trái sang phải không thể nào có cảnh quay ngang từ phải sang trái, hay là sự chuyển động của nghệ sĩ từ trái sang phải không thể theo sau một sự chuyển động khác từ hướng ngược lại.
Ngoài kiểu quay thường còn có kiểu quay cầm tay, một máy quay xách tay nhẹ cân cầm trên tay của nhà quay phim và dựa vào vai của người đó mà không cần dùng chân chống. Kiểu quay này bắt nguồn từ nhà quay phim thời sự và được sử dụng rộng rãi trong các phim tài liệu và những nhà làm phim tiên phong. Đầu những năm 60’ việc sử dụng máy quay phim cầm tay trong việc sản xuất phim điện ảnh ngày càng tăng, vừa tiện lợi vừa đạt được cảm giác thật hơn trong một số cảnh quay.