Thời trước, công việc quay phim được giao cho một
người. Người này không chỉ sử dụng máy quay mà còn phải rửa và tráng
phim trong phòng kín. Tuy nhiên theo thời gian, khi nghệ thuật quay phim
ngày càng phát triển và trở nên phức tạp, nhiệm vụ của nhà quay phim
dần dần đặc trưng hơn và sự đóng góp của họ trong bộ phim ngày càng quan
trọng. Rất nhiều sáng tạo kỹ thuật ghi nhận cho đạo diễn D.W.Griffith
bắt nguồn từ nhà quay phim của ông, Billy Bitzer, hoặc sự cộng tác thân
thiết đầy sáng tạo giữa hai người.
Đạo diễn hình ảnh hiện đại ( Director of Photography- Cinematographer )
Thấy bài này có vẻ được nên post lên cho anh em quay phim nào muốn tìm hiểu thêm về thông tin chuyên ngành....
1. Họa sĩ vẽ bằng ánh sáng
Thời trước, công việc quay phim được giao cho một
người. Người này không chỉ sử dụng máy quay mà còn phải rửa và tráng
phim trong phòng kín. Tuy nhiên theo thời gian, khi nghệ thuật quay
phim ngày càng phát triển và trở nên phức tạp, nhiệm vụ của nhà quay
phim dần dần đặc trưng hơn và sự đóng góp của họ trong bộ phim ngày
càng quan trọng. Rất nhiều sáng tạo kỹ thuật ghi nhận cho đạo diễn
D.W.Griffith bắt nguồn từ nhà quay phim của ông, Billy Bitzer, hoặc sự
cộng tác thân thiết đầy sáng tạo giữa hai người.
Đạo diễn hình ảnh hiện đại ( Director of Photography- Cinematographer )
không bắt buộc là người trực tiếp cầm máy quay, nhưng
họ phải chuyển tải được ý tưởng của biên kịch và đạo diễn thành hình
ảnh sống động. Dưới tay Đạo diễn hình ảnh có nhiều người phụ trách từng
việc riêng biệt. Những người này giúp Đạo diễn hình ảnh rảnh rang để
giải quyết trách nhiệm chính - sáng tạo tâm trạng, không khí, kiểu quay
phù hợp cho mỗi cảnh và duy trì chất lượng những việc này trong suốt cả
phim.
Đạo diễn hình ảnh được coi là hoạ sĩ vẽ bằng ánh
sáng. "Nếu không nhờ trình độ và tài năng của đạo diễn hình ảnh thì
không thể nào chuyển tác phẩm của nhà văn thành những cảnh phim sống
động cho mọi người xem", nhà quay phim Michael Benson nói. Vai trò của
Đạo diễn hình ảnh bắt đầu từ khi phim còn chưa bắt đầu bấm máy. Họ
thường xuyên phải hội ý với nhà sản xuất và đạo diễn về vô số chi tiết
kỹ thuật, kể cả sự lựa chọn nguyên liệu phim và phòng kín. Họ cũng
thường chọn địa điểm được tả trong kịch bản để chắc chắn nó thích hợp
với cảnh quay, tính toán bao nhiêu máy quay và dụng cụ ánh sáng đủ để
quay cảnh đó. Đạo diễn nghệ thuật và hoạ sĩ thiết kế phông màn cùng thảo
luận với đạo diễn hình ảnh về góc độ ánh sáng và cách lắp đặt máy quay
trong mỗi cảnh.
Nhiều người nghĩ rằng đạo diễn chỉ cho diễn viên
những việc phải làm và Đạo diễn hình ảnh ghi hình cảnh đó. Điều đó đúng,
nhưng quá trình này không chỉ đơn giản như vậy. Sự chuyển biến từ kịch
bản ban đầu đến những hình ảnh trên màn ảnh rộng diễn ra qua ống kính
của Đạo diễn hình ảnh. Làm phim là tập hợp những gì có sẵn và lọc qua
một thiết bị- máy quay. Trước khi ghi hình cảnh đầu tiên, tất cả chỉ có
hợp đồng, ý tưởng, khái niệm, kịch bản, và hy vọng mà thôi.
Một khi phim đã khởi quay, đạo diễn hình ảnh là người
quan trọng thứ hai trong đoàn, chỉ sau đạo diễn. Làm việc cùng nhau,
đạo diễn và đạo diễn hình ảnh quyết định góc quay, bố trí, chuyển động
máy quay trong từng phân cảnh. Việc gì đã làm cho đạo diễn hình ảnh đặt
máy quay ở đây mà không là ở đằng kia? Janusz Kaminski cho rằng: "Tất cả
những kinh nghiệm cuộc đời của một người tạo ra mỗi chọn lựa sáng tạo
của anh ta. Đó là điều tạo nên dấu ấn riêng cho mỗi đạo diễn hình ảnh".
Rồi họ chọn ống kính và bộ lọc sáng phù hợp để có thể đạt được những nét
cơ bản theo kịch bản có trước, xác định độ sáng, dựng dụng cụ tạo sáng
để tạo được hiệu quả và màu sắc đặc thù. Sau đó đạo diễn hình ảnh cùng
xem lại cảnh đã quay mỗi ngày để đánh giá hiệu quả công việc và thay đổi
kịp thời trong lần quay tới.
Vào giai đoạn cuối, đạo diễn hình ảnh giám sát sự
thay đổi của bản phim đầu tiên trong phòng kín để chắc chắn độ sáng và
phong thái các màu sắc chủ đạo phù hợp với những hình ảnh chất lượng
trên màn ảnh rộng cho khán giả thưởng thức. Đạo diễn hình ảnh bỏ nhiều
thời gian vào công việc, bù lại họ mang đến cho khán giả, trong vài giây
phút ngắn ngủi, cơ hội để đến một thế giới hoàn toàn mới lạ.
2. Các vị trí khác trong nhóm quay phim
Nhà quay phim ( Camera Operator )
Đạo diễn hình ảnh có phải là nhà quay phim không?
Câu trả lời là "phải". Trong những đoàn làm phim nhỏ,
Đạo diễn hình ảnh vẫn hay đảm nhận việc ghi hình. Nhưng nhà quay phim
không phải lúc nào cũng là Đạo diễn hình ảnh. Nhà quay phim thường sử
dụng ánh sáng từ các hướng khác nhau để quay cận cảnh mặt diễn viên. Đôi
lúc trong những cảnh nhiều máy quay phim ở các góc độ, họ không sử dụng
ánh đèn nào cả. Nhà quay phim điều khiển máy quay, kiểm tra và chịu
trách nhiệm về các đoạn phim đã thực hiện: ánh sáng, góc nhìn, hình ảnh
và sự diễn đạt âm thanh. Họ cần nắm rõ cấu tạo của máy quay và thường
giải quyết những vấn đề kỹ thuật xảy ra trong suốt quá trình làm phim.
Đạo diễn hình ảnh thì thạo sử dụng ánh sáng với nhiều
kiểu và độ nhoè khác nhau. Trong những cảnh hoành tráng, đạo diễn hình
ảnh thường quản lý nhiều nhà quay phim lo riêng về các chuyển động của
máy quay. Sự khác biệt giữa hai chức danh, ngoài kinh nghiệm và kỹ
thuật, còn nằm ở khoản lương họ nhận được.
Trong những đoàn làm phim lớn sẽ có thêm:
+ Trợ lý quay phim thứ nhất ( Focus Fuller ) - thay
ống kính, giữ máy quay hoạt động theo đúng chế độ, giữ nguyên mục tiêu
khi máy quay chuyển động, đánh dấu vị trí diễn viên đứng và đo khoảng
cách từ vật thể đến ống kính.
+ Trợ lý quay phim thứ hai ( Clap Boy)- chuẩn bị đạo
cụ cho Trợ lý thứ nhất, thay phim, điền vào bản báo cáo hoạt động và sử
dụng clapperboard ở đầu hay cuối mỗi phân cảnh.
Phụ trách ánh sáng ( Gaffer )
Vai trò của người phụ trách ánh sáng ảnh hưởng mật
thiết đến sự thành công của một bộ phim. Nói cho cùng, tất cả những công
việc sản xuất như phông màn, đạo cụ, tài năng, và quay phim đều phải
dựa vào ánh sáng mới nổi bật được. Ánh sáng ẩu dễ làm hư một tác phẩm
nghệ thuật, và ngược lại, ánh sáng đẹp sẽ làm tăng thêm giá trị một bộ
phim bình thường.
Phụ trách ánh sáng quản lý độ sáng, màu sắc, độ tương
phản, nguồn sáng và tính tự nhiên của ánh sáng. Họ cũng thường là người
quản lý điện đóm, bảo đảm đủ năng lượng cho các độ sáng ở mọi cảnh
quay. Trong những cảnh rộng, họ thường có thợ điện và vài người thợ lắp
ráp giúp những việc tay chân cần thiết cho các yêu cầu điện đóm. Nhờ đó
người phụ trách có thể rảnh rang lo ánh sáng, cụ thể là thiết kế, sắp
đặt, và điều khiển những thiết bị ánh sáng và dàn đèn.
Kinh nghiệm và phong cách là những yếu tố cần thiết
để chọn một người quản lý ánh sáng. Kinh nghiệm rất quan trọng. Lo ánh
sáng cho một góc quay hay nhiều góc quay cùng một lúc là những chuyện
rất khác nhau. Nhiều người phụ trách ánh sáng đã vô cùng lúng túng khi
tìm cách lên đèn cho một cảnh sử dụng nhiều máy quay ở các góc độ, nhất
là khi họ đã quen với kiểu quay một máy. Nói về phong cách, đó là khả
năng ghi nhớ bối cảnh của một bộ phim. Ví dụ trong một bộ phim khung
cảnh đồng quê, phụ trách ánh sáng cần chú ý hạn chế kiểu ánh sáng thành
thị màu mè.
Phụ trách ánh sáng phối hợp chặt chẽ với Đạo diễn
hình ảnh để cùng làm tôn lên phong cách nghệ thuật của một bộ phim. Họ
thường đứng ở vị trí thứ ba, sau Đạo diễn, Đạo diễn hình ảnh ( và nhà
quay phim, nếu có ). Có câu chuyện kể rằng khi một vị đạo diễn hình ảnh
nổi tiếng và đáng kính được các sinh viên hỏi điều gì quan trọng nhất họ
có thể làm để nâng cao chất lượng hình ảnh, ông đã trả lời: "Hãy thuê
người phụ trách ánh sáng tốt nhất có thể, thậm chí chia một phần lương
của mình cho anh ta".
Trợ lý ánh sáng ( Best Boy )
Trong những đoàn làm phim lớn sẽ có trợ lý ánh sáng.
Trợ lý làm việc chủ yếu với đạo diễn hình ảnh và là cánh tay phải của
người phụ trách ánh sáng. Công việc chủ yếu của họ là bảo đảm điện năng,
chăm lo cho nhóm quay phim, lắp đặt thiết bị, quản lý công việc giấy
tờ, và thuê thêm người nếu có những cảnh quay lớn phức tạp. Đôi lúc khi
quản lý ánh sáng quá bận, người trợ lý này phải luôn luôn sẵn sàng để
phụ việc hoặc làm thay người phụ trách ánh sáng.
Một khi Đạo diễn hình ảnh và phụ trách ánh sáng đã
hội ý xong, công việc của trợ lý ánh sáng là lên đèn ở độ sáng và mờ cần
thiết để phối hợp với tốc độ phim, tương phản, thiết bị lọc sáng, ống
kính, và loại phim. Thường những bóng đèn họ sử dụng là những bóng đèn
lớn ( 12,000 W đến 36,000 W ) và cần khá nhiều điện năng. Vài loại bóng
đèn họ sử dụng được thiết kế đặc biệt chỉ dùng để bắt chước ánh sáng
ngày ( đèn HMI ) hoặc đêm ( đèn Tungsten ). Họ cũng có những loại keo để
tạo ra nhiều màu sắc khác nhau và làm ánh sáng nhạt hơn.
Hậu đài ( Grips )
+ Key Grip: Quản lý các nhân viên hậu đài. Đồng thời
đây cũng là người tháp tùng và mang theo đầy đủ đồ nghề cho nhà quay
phim đến những địa điểm quay.
+ Second Company Grip: Đặt hàng dụng cụ cần thiết cho công việc hậu đài ở mỗi phim.
+ Crane/ Dolly Grip: Người thiết kế đường ray máy
quay, điều khiển tay cẩu máy quay hoặc lo phần "chân" của các máy quay,
như cây chống, cây dù đủ cỡ...
+ Construction Grip: Dựng/ tháo phông màn, dựng dàn đèn, bảo trì phông cảnh.
+ Company Grips: Giúp việc lặt vặt cần thiết khi dựng cảnh.
3. Một số kỹ thuật quay phim
Góc quay là góc nhìn từ máy quay với chiều sâu, chiều
dài, chiều rộng cân xứng với vật hay hành động được quay. Góc nhìn từ
máy quay không chỉ quyết định cái gì sẽ xuất hiện trong cảnh đó mà nói
chung còn là cách khán giả sẽ nhìn sự việc - gần hay xa, từ trên xuống
hay từ dưới lên, chủ quan hay khách quan…
Do đó sự chọn góc quay không chỉ ảnh hưởng đến tiến
độ câu truyện mà còn thể hiện chất lượng thẩm mỹ của cảnh quay và quan
điểm tâm lý của khán giả. Qua nhiều năm, đạo diễn và nhà quay phim đã
thành lập một kiểu quy ước liên quan đến kỹ thuật, thẩm mỹ và đặc tính
tâm lý của nhiều góc quay khác nhau.
Góc ngang ( vừa tầm mắt ) để diễn tả cảnh giống như
thật nhưng ít kịch tính. Người ta cho là nó cung cấp cái nhìn bình
thường và thường quay từ độ cao 1.2 m đến 1.8 m. Tầm mắt của nghệ sĩ (
chứ không phải của nhà quay phim ) quyết định chiều cao của máy quay, và
đặc biệt chủ yếu trong những khi quay cận cảnh. Vì hướng nhìn bình
thường nên cảnh quay góc ngang thường được sử dụng để tạo nên tình huống
và chuẩn bị cho khán giả một cảnh liên quan.
Trong cảnh quay góc cao máy quay nhìn xuống sự vật.
Theo kỹ thuật thì nó có thể cho phép đạo diễn có cái nhìn bao trùm hết
mặt đất và hành động trong chiều sâu. Cảnh như vậy cũng sẽ có khuynh
hướng làm chậm hành động lại và giảm bớt độ cao của sự vật hay nhân vật (
theo luật xa gần ). Nét đặc trưng cuối cùng này có thể gây ra nhiều
hiệu quả tâm lý phụ, ví dụ như cho khán giả cảm giác mạnh mẽ hơn nhân
vật trên màn ảnh hay ngụ ý hạ thấp tầm quan trong của bất cứ nhân vật
nào với những người hoặc khung cảnh xung quanh.
Trong phim của Murnau The Last Laugh, diễn viên Emil
Jannings thường được quay từ trên xuống sau sự sụp đổ của ông, trong khi
trước đó các cảnh miêu tả ông như là một ông gác cổng kiêu hãnh thường
được quay ở góc thấp. Trong cảnh quay góc thấp, máy quay thường đặt ở
dưới nhìn lên sự vật. Hiệu quả của cách này thường là để tạo kịch tính,
tạo nên sự xuyên tạc quyền lực của viễn cảnh và toàn bộ sự việc. Nó
thường đẩy nhanh diễn biến phim, thêm tầm cao và sức mạnh cho nhân vật.
Sự sắp đặt máy quay góc thấp chiếm ưu thế trong phim
Citizen Kane của Orson Welles để làm nổi bật sự to lớn phi thường của
ông trùm báo chí. Để chấp nhận việc thường xuyên sử dụng kiểu quay này,
Welles đã phải xây dựng phim trường toàn là trần nhà. Chính sự có mặt
khắp nơi của trần nhà ở cảnh nền đã tạo nên một trong những nét đặc
trưng khác thường của Citizen Kane. Chỉ đơn thuần thay đổi góc quay, đạo
diễn có thể không chỉ cho thấy sự thăng trầm trong cuộc đời nhân vật mà
còn thổi vào thái độ khán giả phải chấp nhận qua những cá tính và hành
động trong phim.
Sự đa dạng trong các góc quay là vô tận. Không có
luật lệ nào về chuyện phải sử dụng góc quay nhất định cho một cảnh nào
đó. Góc ngang, góc cao và góc thấp chỉ là những nhóm chính, như là cách
quay cạnh ( thêm một chiều nữa cho sự vật ), góc Hà Lan / khung nghiêng (
nhìn sự vật trong cái nhìn nghiêng hiệu quả cao ) và rất nhiều góc quay
khác được sử dụng cũng như chưa được biết đến qua bao nhiêu thập kỷ làm
phim.
Chuyển động máy quay là sự di chuyển ngang, dọc, theo
đường ray ( sự chuyển động của máy quay trên một đường ray ngắn đặt sẵn
quay theo vật thể di chuyển ) và phóng to thu nhỏ. Có những quy ước
quan sát quốc tế dành cho chuyển động máy quay. Theo quy định, một nhà
quay phim sẽ chạy máy quay ở vị trí nhất định trong một thời gian ngắn
trước khi bắt đầu chuyển động, và đứng im một lần nữa sau khi hoàn tất
chuyển động. Luật lệ này không chỉ giúp cho hình ảnh chuyển động uyển
chuyển mà còn cho phép biên tập viên có sự lựa chọn giữa cảnh tĩnh và
cảnh động khi đang chỉnh sửa phim.
Một cách nhìn thoáng hơn về luật này là chuyển động
bắt đầu và kết thúc ở một điểm đặc biệt nào đó đã được chọn sẵn và quay
tập nhiều lần trước khi quay chính thức. Đạo diễn hình ảnh trong trường
hợp này khá quan trọng trong việc quyết định chuyển động máy, ví dụ sau
một cảnh quay ngang từ trái sang phải không thể nào có cảnh quay ngang
từ phải sang trái, hay là sự chuyển động của nghệ sĩ từ trái sang phải
không thể theo sau một sự chuyển động khác từ hướng ngược lại.
Ngoài kiểu quay thường còn có kiểu quay cầm tay, một
máy quay xách tay nhẹ cân cầm trên tay của nhà quay phim và dựa vào vai
của người đó mà không cần dùng chân chống. Kiểu quay này bắt nguồn từ
nhà quay phim thời sự và được sử dụng rộng rãi trong các phim tài liệu
và những nhà làm phim tiên phong. Đầu những năm 60’ việc sử dụng máy
quay phim cầm tay trong việc sản xuất phim điện ảnh ngày càng tăng, vừa
tiện lợi vừa đạt được cảm giác thật hơn trong một số cảnh quay.